Cho vay, đòi tiền sao cho đúng pháp luật để không vướng vào lao lý?
Tình trạng người vay tiền trở mặt, không chịu trả lại số tiền đã vay dẫn đến người cho vay rơi vào cảnh bức xúc diễn ra không hiếm trong cuộc sống hiện nay. Trong trường hợp này, đòi nợ sao cho đúng để tránh các rắc rối về pháp luật là câu hỏi đặt ra đối với không ít người.
Hậu quả khi đòi nợ trái pháp luật
Dưới góc độ pháp lý, trong trường hợp hai bên có quan hệ vay nợ lẫn nhau nên giải quyết thông qua thỏa thuận hoặc thông qua pháp luật thay vì đơn phương thực hiện hành vi lấy đi tài sản của người vay để trừ nợ.
Theo quy định tại Điều 170 Bộ Luật hình sự 2015, nếu người cho vay lấy đi tài sản của người vay tiền khi không có sự đồng ý của họ để trừ nợ là hành vi cưỡng đoạt tài sản của người khác. Theo đó, người có hành vi cưỡng đoạt tài sản có thể bị phạt tù từ 1 năm đến 5 năm. Ngoài ra, còn bị phạt hành chính từ 10-100 triệu đồng và bị tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản do cưỡng đoạt mà có.
Nếu trong quá trình đòi nợ xảy ra xô xát, gây ra hậu quả nghiêm trọng thì tùy theo tính chất, mức độ có thể cấu thành tội cố ý gây thương tích, gây tổn hại sức khỏe của người khác được quy định tại Điều 134, Bộ Luật hình sự, có thể bị xử lý từ 6 tháng đến chung thân.
Hoặc trong quá trình đòi nợ vô tình gây hậu quả nghiêm trọng, gây thương tích, tổn hại cho sức khỏe của người vay tiền thì có thể dẫn đến tội danh “vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác” và mức phạt tù cao nhất lên đến 3 năm được quy định tại Điều 138, Luật hình sự 2015.
Ngoài các biện pháp đòi nợ bằng cách dùng vũ lực, cưỡng đoạt tài sản của người vay tiền ra thì chủ nợ cũng thường hay mắc lỗi “Xúc phạm danh dự, nhân phẩm người khác” khi có hành vi đăng thông tin thóa mạ gây ảnh hưởng đến danh dự, nhân phẩm của người vay tiền trên các kênh thông tin đại chúng như zalo, facebook…, hoặc nơi công cộng. Hành vi này có thể bị phạt tiền từ 10 triệu đến 30 triệu đồng hoặc cải tạo không giam giữ lên đến 3 năm theo quy định tại Điều 155 Bộ luật hình sự 2015 về tội “làm nhục người khác”.
Để tránh những rắc rối như trên xảy ra, cần lưu ý trước khi cho vay tiền thì người cho vay phải tìm hiểu kỹ, đồng thời lập các giấy tờ văn bản cần thiết như giấy giao nhận tiền, thời hạn vay, thời hạn trả, mức lãi suất như thế nào … Khi xảy ra những tranh chấp thì những giấy tờ này sẽ là căn cứ pháp lý vững chắc để sau này khởi kiện vụ việc ra Tòa.
Cho vay tiền không có giấy nợ có khởi kiện được không?
Pháp luật quy định giao dịch dân sự có thể được giao kết bằng lời nói, bằng văn bản hoặc bằng hành vi cụ thể. Việc cho vay tiền giữa hai bên là giao dịch dân sự được pháp luật công nhận. Trong trường hợp hai bên có quan hệ vay nợ lẫn nhau và các bên không thỏa thuận được thời gian, thời hạn trả nợ cũng như số nợ phải trả, số lãi phải trả thì bên cho vay có thể yêu cầu tòa án giải quyết.
Ngoài các giấy tờ vay nợ cụ thể thì theo Điều 10 Luật Giao dịch Điện tử 2005 quy định: “Thông điệp dữ liệu được thể hiện dưới hình thức trao đổi dữ liệu điện tử, chứng từ điện tử, thư điện tử, điện tín, điện báo, fax và các hình thức tương tự khác.” Như vậy tin nhắn, email thỏa thuận việc cho vay tiền cũng đã là giao kết và có thể làm bằng chứng tại Tòa. Để có giá trị chứng minh tốt nhất khi giải quyết tranh chấp tại Tòa thì bên cho vay nên lập vi bằng để ghi nhận những nội dung tin nhắn trong điện thoại và email để làm chứng cứ tại Tòa.
Tại Điều 94 Bộ luật Tố tụng Dân sự 2015 thì chứng cứ được thu thập từ các nguồn sau đây: Tài liệu đọc được, nghe được, nhìn được, dữ liệu điện tử; Văn bản ghi nhận sự kiện, hành vi pháp lý do người có chức năng lập…
Khi có đầy đủ bằng chứng chứng minh người vay tiền đã vi phạm nghĩa vụ phải trả đủ tiền khi đến hạn, thì người cho vay có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết buộc bên vay phải có nghĩa vụ trả tiền vay cho mình theo quy định.
Tòa án ở đâu có thẩm quyền giải quyết vụ việc?
Theo Bộ luật Tố tụng Dân sự 2015, nếu bị đơn là cá nhân thì thẩm quyền giải quyết vụ án dân sự là Tòa án cấp huyện nơi bị đơn cư trú, làm việc. Nếu trong trường hợp bên khởi kiện không biết nơi cư trú, làm việc của bị đơn thì có thể khởi kiện tại Tòa án nơi bị đơn cư trú, làm việc cuối cùng hoặc nơi bị đơn có tài sản giải quyết.
Sau khi nghiên cứu hồ sơ, căn cứ pháp lý, tòa án sẽ ra một phán quyết cho người cho vay tiền; nếu có căn cứ thì yêu cầu người vay tiền phải trả cho người cho mượn số tiền đã vay. Trong trường hợp này, tòa án nhân danh công lý, nhân danh pháp luật, căn cứ theo quy định của pháp luật để ra một phán quyết hợp pháp.
Nếu Tòa án đã ra phán quyết nhưng người vay tiền vẫn không trả được số tiền đã mượn thì người cho vay vẫn được tiếp tục quyền của mình, đó là yêu cầu tòa án giải quyết. Sau khi có bản án của tòa án thì người cho vay có thể yêu cầu cơ quan thi hành án tiến hành thi hành bản án, nghĩa là tìm hiểu người vay tiền có tài sản ở đâu để thực hiện các biện pháp cưỡng chế cũng như phong tỏa tài sản của con nợ, thu hồi khoản nợ cho chủ nợ.
Trong trường hợp sử dụng những biện pháp khác ngoài biện pháp khởi kiện tại Tòa án thì người cho vay trước khi xử lý cũng phải tìm hiểu về pháp luật hoặc hỏi ý kiến của các luật sư, chuyên gia pháp lý về những việc mình làm xem hậu quả cụ thể xảy ra có vi phạm pháp luật hay không.
Nhận xét
Nội quy: Nhận xét có tối thiểu 3 ký tự.