“Mỗi địa phương cần chủ động nghiên cứu, đề xuất cơ chế chính sách phát triển”
Phát biểu tham luận tại Tọa đàm, Chủ tịch UBND tỉnh Quảng Nam Lê Trí Thanh cho rằng cần cho phép các địa phương trong vùng được chủ động nghiên cứu, đề xuất các cơ chế chính sách phát triển để đưa vào quy định phát luật bởi vì chính địa phương đó mới biết họ cần và thiếu cái gì để phát triển.
Ngày 01/7/2022, tại Quảng Nam, Ban Chỉ đạo Tổng kết Nghị quyết 39-NQ/TW phối hợp với Tỉnh ủy Quảng Nam tổ chức Tọa đàm khoa học "Liên kết phát triển Vùng Kinh tế trọng điểm trong bối cảnh mới". Đồng chí Trần Tuấn Anh, Ủy viên Bộ Chính trị, Trưởng Ban Kinh tế Trung ương, Trưởng Ban Chỉ đạo tổng kết Nghị quyết và đồng chí Phan Việt Cường, Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy Quảng Nam chủ trì Tọa đàm.
Tham dự có các đồng chí Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, đại diện lãnh đạo các tỉnh, thành: Thừa Thiên Huế, Đà Nẵng, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định; đại diện lãnh đạo một số bộ, ngành Trung ương, thành viên Ban Chỉ đạo, Tổ Biên tập xây dựng Đề án; đại diện lãnh đạo một số sở, ban, ngành thuộc các tỉnh, thành Vùng Kinh tế trọng điểm miền Trung; một số một số chuyên gia, nhà khoa học và doanh nghiệp đóng trên địa bàn.

Tại Tọa đàm, các đại biểu đều thống nhất sau 18 năm thực hiện Nghị quyết 39-NQ/TW của Bộ Chính trị và Quyết định số 148/2004/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ, các tỉnh, thành Vùng Kinh tế trọng điểm miền Trung đã tổ chức nhiều hình thức phối hợp, liên kết nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội trong vùng. Liên kết Vùng Kinh tế trọng điểm miền Trung đã mang lại một số kết quả tích cực.
Tăng trưởng kinh tế đã đạt được những thành tựu quan trọng. Trong giai đoạn 2001-2019, tốc độ tăng GRDP bình quân toàn vùng luôn được duy trì ở mức tăng trưởng cao (10,25%/năm). Các địa phương nội vùng duy trì được mức tăng trưởng cao. Thành phố Đà Nẵng có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao nhất vùng, bình quân 12,05%/năm. Tiếp đến là Quảng Nam với tốc độ tăng trưởng bình quân đạt 11,58%/năm. Quảng Ngãi đạt tốc độ tăng trưởng 11,19%/năm. Tỉnh Bình Định là 8,73%/năm.
Tuy nhiên, nhìn về tổng thể, mặc dù duy trì được mức tăng trưởng cao trong thời gian dài nhưng quy mô nền kinh tế Vùng Kinh tế trọng điểm miền Trung còn tương đối nhỏ và chiếm tỷ trọng khá thấp trong nền kinh tế Việt Nam. Các đại biểu đều cho rằng liên kết tiểu vùng Kinh tế trọng điểm Miền Trung và vùng Bắc Trung Bộ và duyên hải Trung bộ đang gặp rất nhiều khó khăn và hạn chế, đồng thời nêu ra nguyên nhân hạn chế, hướng đi thời gian tới của Vùng kinh tế trọng điểm miền Trung.
Tại Tọa đàm, Chủ tịch UBND tỉnh Quảng Nam Lê Trí Thanh cho rằng cần cho phép các địa phương trong vùng được chủ động nghiên cứu, đề xuất các cơ chế chính sách phát triển để đưa vào quy định phát luật bởi vì chính địa phương đó mới biết họ cần và thiếu cái gì để phát triển.
Còn PGS.TS Trần Đình Thiên - Nguyên Viện trưởng Viện Kinh tế Việt Nam cho rằng, để liên kết phát triển Vùng Kinh tế trọng điểm miền Trung trong thời gian tới đạt hiệu quả, cần đánh giá lại tiềm năng và lợi thế phát triển vùng, của từng địa phương, từ đó “lật ngược tình thế” để phát triển. Ngoài ra, phải xác định rõ vai trò vị trí của vùng để xây dựng quy hoạch phát triển vùng kinh tế trọng điểm miền Trung và nâng cao hơn nữa vai trò lãnh đạo trong liên kết vùng.

Phát biểu tại Tọa đàm, ông Trần Tuấn Anh cho hay, Vùng Kinh tế trọng điểm Miền Trung (Thừa Thiên Huế, Đà Nẵng, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định) có điều kiện thuận lợi để trở thành trung tâm kinh tế biển mạnh, phát triển đa dạng các ngành dịch vụ có giá trị gia tăng cao như dịch vụ xuất, nhập khẩu, du lịch, nghề cá, dầu khí, vận tải...; phát triển cảng biển, dịch vụ cảng, kinh tế đảo và vận tải biển, sông - biển; phát triển các đội tàu, công nghiệp, đóng mới và sửa chữa tàu biển; phát triển các khu kinh tế và các trung tâm thương mại, du lịch và giao dịch quốc tế của vùng Bắc Trung bộ và Duyên hải Trung bộ...
Trưởng ban Kinh tế T.Ư, Trần Tuấn Anh đánh giá, vùng kinh tế trọng điểm miền Trung là một bộ phận quan trọng của vùng Bắc Trung Bộ và Duyên hải Trung Bộ và với nhiều tiềm năng, lợi thế nên được Nghị quyết 39-NQ/TW đặt vào vị trí trung tâm và định hướng trở thành khu vực phát triển năng động với tốc độ nhanh và bền vững, là vùng động lực phát triển cho toàn vùng Bắc Trung Bộ và Duyên hải Trung Bộ.
Cũng theo ông Trần Tuấn Anh, để hoàn thiện Đề án tổng kết Nghị quyết 39-NQ/TW, Ban Chỉ đạo giao Thường trực Tổ Biên tập chắt lọc kết quả Tọa đàm để lựa chọn, tổng hợp đảm bảo phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ tổng kết và tham mưu cho Bộ Chính trị, Ban Bí thư các chủ trương, định hướng nhằm phát triển vùng Bắc Trung bộ và duyên hải Trung bộ thời gian tới. Trưởng Ban Kinh tế Trung ương cũng đề nghị Tọa đàm làm rõ các vấn đề sau:
Thứ nhất, làm rõ được tiềm năng, lợi thế của từng địa phương trong Vùng, đề xuất được định hướng lớn về vai trò, chức năng và nhiệm vụ chính của từng địa phương trong vùng Kinh tế trọng điểm miền Trung và cả vùng Bắc Trung bộ và duyên hải Trung bộ. Từ đó, đề xuất Ban Chỉ đạo những giải pháp về những định hướng lớn về chiến lược và quy hoạch vùng Kinh tế trọng điểm miền Trung trong mối quan hệ với cả vùng Bắc Trung bộ và duyên hải Trung bộ, thực hiện tốt vai trò, chức năng, nhiệm vụ và và tăng cường liên kết các địa phương trong vùng Nam Trung bộ; đặc biệt là liên kết phát triển kết cấu hạ tầng giao thông, cảng biển và phát triển đô thị.
Thứ hai, làm sâu sắc kết quả, thuận lợi và khó khăn trong thực tiễn liên kết phát triển kinh tế vùng, nhất là việc ban hành, tổ chức thực hiện và hiệu lực, hiệu quả các cơ chế, chính sách liên kết vùng Kinh tế trọng điểm miền Trung thời gian qua. Từ đó, đề xuất được những định hướng về các thể chế, cơ chế, chính sách, nguồn lực mới, các động lực liên kết mới cho các ngành, lĩnh vực của vùng Kinh tế trọng điểm miền Trung đảm bảo phù hợp với các chủ trương, định hướng của Đảng về phát triển vùng Bắc Trung bộ và duyên hải Trung bộ.
Thứ ba, làm rõ hơn về xu hướng tất yếu và lợi ích của các địa phương khi tăng cường liên kết phát triển vùng, nhất là trong bối cảnh nhiều xu thế kinh tế mới như kinh tế số, kinh tế tuần hoàn….; nhiều thách thức mới xuất hiện như dịch bệnh Covid19, chính sách bảo hộ thương mại, biến đổi khí hậu. Tiếp tục thay đổi tư duy, nhận thức và hành động nhằm tăng cường liên kết vùng, phối hợp ứng dụng các thành quả của khoa học-công nghệ, cách mạng 4.0 và vì lợi ích chung của vùng
Thứ tư, phân tích, đánh giá các kinh nghiệm, mô hình quốc tế về liên kết phát triển vùng để vận dụng sáng tạo, linh hoạt, phù hợp vào phát triển vùng Kinh tế trọng điểm miền Trung và vùng Bắc Trung bộ và duyên hải Trung bộ, đặc biệt là về thể chế, chính sách và mô hình quản lý, bộ máy. Từ đó, cung cấp cho Ban Chỉ đạo những luận cứ khoa học và thực tiễn để tham mưu, đề xuất các thể chế, cơ chế, chính sách, nguồn lực phù hợp.
Thứ năm, tập trung làm rõ về thuận lợi, khó khăn, các vấn đề đặt ra trong liên kết vùng về các ngành, lĩnh vực có lợi thế, nhất là phát triển kết cấu hạ tầng giao thông, cảng biển, phát triển đô thị; phát triển đa dạng các ngành dịch vụ có giá trị gia tăng cao như dịch vụ xuất, nhập khẩu, du lịch, nghề cá, dầu khí, vận tải...; phát triển cảng biển, dịch vụ cảng, kinh tế đảo và vận tải biển, sông - biển; phát triển các đội tầu, công nghiệp, đóng mới và sửa chữa tàu biển; phát triển các khu kinh tế và các trung tâm thương mại, du lịch và giao dịch quốc tế; phát triển các khu kinh tế biển gắn với phát triển công nghiệp biển và du lịch... Từ đó, đề xuất Ban Chỉ đạo tham mưu các giải pháp thúc đẩy liên kết vùng, nâng cao hiệu quả hoạt động của các tiểu vùng, các khu công nghiệp, khu kinh tế biển, khu du lịch gắn với đô thị hóa và xây dựng các hành lang kinh tế, tăng cường liên kết nội vùng và thúc đẩy hội nhập quốc tế.
Nhận xét
Nội quy: Nhận xét có tối thiểu 3 ký tự.